Wednesday, February 11, 2015



Trong Đông y, những cây thuốc có tác dụng giải độc rất phong phú và mang lại hiệu quả cao trong những nhiều trường hợp ngộ độc thuốc hoặc thực phẩm.

Đối với người dân ở những vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thì những cây thuốc có tác dụng giải độc này lại có giá trị dự hơn cả. Dưới đây baithuoc.vn nêu ra những loại cây có tác dụng hỗ trợ thanh nhiệt, giải độc hiệu quả.

Sắn dây

Theo Đông y, sắn dây có vị ngọt, tính bình, công năng giải nhiệt, giải biểu, sinh tân dịch, chỉ khát, tác dụng chữa cảm mạo, phát sốt, ban sởi mới phát, đi lị ra máu, khát nước, mụn nhọt. Ngoài ra bột sắn dây còn có tác dụng giã rượu rất tốt.

Cách dùng sắn dây thanh nhiệt giải độc như sau: Lấy củ sắn dây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống hoặc sử dụng củ sắn dây khô sắc lấy nước uống; bột sắn dây hòa với nước rồi pha thêm đường uống; lá sắn dây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống để chữa rắn độc cắn, bã đắp lên trên vị trí tổn thương.

Cây hoa mua

Ở nước ta có nhiều loại mua, người ta hay dùng cây mua lùn để làm thuốc. Thường dùng để giải độc sắn và chữa rắn độc cắn.

Cách dùng cây hoa mua giải độc rắn cắn như sau: Lấy rễ giã nát, hãm với nước sôi hoặc sắc lấy nước uống)

Cây đậu xanh

Theo Đông y, đậu xanh vị ngọt, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thử lợi tiểu. Đậu xanh là loại thức ăn nhiều kali, ít natri. Người ngay ăn đậu xanh và chế phẩm của nó huyết áp của họ sẽ thấp. Trong đậu xanh còn có thành phần hạ huyết mỡ hữu hiệu, nó còn giúp cho cơ thể gian chứng xơ cứng động mạch và bệnh cao huyết áp, đồng thời có công hiệu bảo vệ gan và giải độc.

Cách dùng đậu xanh giải độc như sau: 100g đậu xanh rửa sạch, nghiền sống, chế nhiều nước rồi uống hoặc nhai luôn 1-2 nắm hạt sống rồi uống nhiều nước. Có thể lấy cả hạt ninh nhừ ăn, nếu chỉ có vỏ hạt thì sắc lấy nước uống. Cũng có thể dùng bột đậu xanh hoà với nước nguội để uống. Hạt đậu xanh dùng giải độc trong mọi trường hợp, đặc biệt khi say sắn và ngộ độc nấm.

Kim ngân

Là một loại dây leo, có thể dài đến 9-10m, có nhiều cành, thân rỗng, lúc non mầu xanh, khi già mầu đỏ nâu, trên thân có những vạch chạy dọc.

Dùng Kim ngân chữa mụn nhọt, các chứng ngứa, lở, dị ứng, rôm sẩy, lên đậu, lên sởi, tả lỵ

Cách dùng: Lấy 12g hoa (kim ngân hoa) hay 20g cành lá (kim ngân đằng) sắc lấy nước uống hàng ngày.

Rau má

Rau má vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt giải độc, làm mát gan và lợi tiểu.

Cách dùng: Rau má rửa sạch, giã nát, hòa với nước ấm rồi gạn lấy nước uống; để chữa ngộ độc nấm cũng làm như trên hoặc lấy rau má 160g đem sắc với 80g đường phèn lấy nước uống hoặc lấy 160g rau má và 400g củ cải tươi, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống.

Xem thêm các bài thuốc dân gian



Cua đồng hay còn có tên gọi khác là “Điền giải”, sinh sống ở những vùng nước ngọt, phân bố rộng rãi từ đồng bằng đến trung du miền núi nước ta. Cua đồng thường được dùng làm món ăn bổ dưỡng trong những ngày hè oi ả như: riêu cua, lẩu cua, bún măng cua.. có tác dụng giải nhiệt, dễ tiêu hóa.

Theo Đông y, cua đồng có tính hàn, vị mặn, hơi độc. Cua đồng được dùng trong Đông y làm bài thuốc liền gân nối xương, trị nhiệt tà, trừ ghẻ lở, máu đông cục…

Theo như Sách Nam dược của Tuệ Tĩnh cho biết: “Điền giải có vị mặn, mùi tanh, tính hàn, hơi độc, tác dụng liền gân, nối xương, trị nhiệt tả, ngộ độc, máu kết cuộc, lở ghẻ”. Theo sách Dược tính chỉ nam của Tuệ Tĩnh có ghi thêm: “Điền giải có tác dụng tán tà nhiệt trong lồng ngực, thông được kinh mạch, làm cho ngũ tạng khỏi buồn phiền, giải được độc do thức ăn, liền được gân, thêm sức cho xương, bổ ích khí lực, tống được các vật kết đọng trong người, phá được chứng ứ huyết do vấp ngã hoặc bị đánh chấn thương, sốt rét”…

Những món ăn – bài thuốc từ cua đồng được Đông y sử dụng

Trị ghẻ lở, thanh nhiệt cơ thể: Lấy 200g cua đồng bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước; mướp hương 1 – 2 trái cạo vỏ, rửa sạch, cắt miếng; rau đay và mồng tơi tươi mỗi thứ 100g rửa sạch, cắt đoạn. Đun sôi nước cua và cho các loại rau vào, đến khi mướp chín là được.

Trị còi xương, chậm đi ở trẻ nhỏ: Cua đồng sau khi được làm sạch, bỏ chân, càng, mai, yếm, chỉ lấy mình cua, rang nhỏ lửa cho vàng và khô. Giã nhỏ, rây lấy bột mịn. Hàng ngày, dùng bột cua quấy với bột gạo cho trẻ ăn, mỗi lần 1 – 2 thìa nhỏ. Kết hợp cho trẻ tắm nắng vào buổi sáng 15 phút, 2 – 3 lần/tuần sẽ cho kết quả tốt hơn.

Trị lành viết thương bầm dập: cua đồng 2 con giã nát, rượu 1 chén, cho vào nồi đun sôi, gạn lấy nước uống, bã đắp vào chỗ đau.

Trị chứng mất ngủ, biếng ăn: sử dụng 1 – 2 nắm rau rút bỏ rễ, cạo bỏ phần bấc, ngắt đoạn, rửa sạch; khoai sọ 300 – 400g cạo vỏ, xắt nhỏ; cua đồng 200g bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, gạn lấy nước. Cho khoai sọ vào nước cua nấu chín, khi gần chín, cho rau nhút vào, đun sôi tiếp 5 – 10 phút. Ăn trong ngày, cần ăn 2 – 3 ngày.

Trị chứng viêm thận cấp bằng cua đồng: Lấy 250g cua đồng bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước; vỏ cây dâu 50g rửa sạch, cắt đoạn. Đem tuốt nấu thành canh, uống nước.

Trị chứng chướng bụng, đầy hơi: Cua đồng làm sạch, giã lấy nước nấu cháo, ăn nóng.

Trị đau răng lợi, nhiệt miệng: sử dụng cua đồng nấu với khổ qua, ăn hàng ngày có tác dụng thanh nhiệt rất tốt.

Tuy nhiên, cua đồng không phải tốt cho sức khỏe của thảy mọi người. Những người không nên dùng cua đồng như: Những người ốm, những người mới ốm dậy, đàn bà có thai, những người có miêu tả tỳ vị hư hàn. Trong gạch cua có chứa nhiều hàm lượng cholesterol, nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch cần hạn chế dùng.

Lưu ý: Trong các món ăn được chế biến từ cua đồng nên cho thêm tử tô và gừng để làm giảm bớt tính hàn.

Xem thêm các bai thuoc dan gian

Tuesday, February 10, 2015



Đàn ông dùng nấm này thẳng tắp thì dễ năm thê bảy thiếp, mà dẫn đến nát cửa tan nhà!

Mới đây, trong lần vào bản Phìn Sư (xã Túng Sán, Hoàng Su Phì, Hà Giang) của người Cờ Lao, tôi được thầy cúng Min Phà Sinh, người Cờ Lao mời uống một thứ nước lạ. Thứ nước ấy có màu đen thẫm, vị hơi chát. Uống xong bát nước, một cảm giác khá lạ xảy ra: Sự rời rã của cơ thể sau hành trình đánh vật dài đằng đẵng với cung đường dốc ngược như đường lên trời, nghe đâu tan biến đâu mất. Từng dùng nhiều loại thảo dược quý, song tôi phải công nhận, thứ thảo dược này rất lạ. Tôi phân vua ý muốn được xem thứ thảo dược lạ ấy.

Thầy cúng Min Phà Sinh gọi vợ, nói mấy câu Cờ Lao, nghe hệt tiếng Tàu, thì cô vợ đi ra phía trái nhà. Lát sau, vợ Min Phà Sinh mang đến một sâu thứ thảo dược lạ dùng nấu nước ấy.

Từng đi rừng nhiều, biết nhiều loại nấm, từ nấm phục thần mọc dưới lòng đất, ký sinh trên rễ cây thông đỏ, cho đến phục linh thiên mọc trên ngọn cây vân sam trên đỉnh Fansipan quý như vàng ròng, song tôi chưa được thấy loài nấm này.

Nấm tan cửa nát nhà

Cả củ và thân nấm, trông chả khác gì nguyên cụm… của quý. Hai “viên ngọc” bám lủng lẳng hai bên, và nảy nòi từ giữa hai “viên ngọc” đó là “cái cột có mũ”. Tôi thiết nghĩ, củ nấm này đem về xuôi, chị em nhìn thấy, chắc cũng phải đỏ mặt.

Min Phà Sinh năm nay 54 tuổi, đã có chắt nội, chắt ngoại, tức lên chức cụ, mà trông khá trẻ. Vợ Sinh cũng đã 55 tuổi, mà má vẫn hồng, tóc vẫn đen, răng vẫn chắc. Người Cờ Lao sống ở sát đỉnh Tây Côn Lĩnh, cuộc sống khắc nghiệt, nghèo túng, mà giữ được dáng dấp như thế kể cũng lạ. Thầy cúng Sinh vẫn liếm dao nung đỏ cháy xèo xèo, vẫn đi rừng phăm phăm và đi bộ hàng trăm cây số để đuổi ma, xua tà cho những gia đình ham trò mê tín dị đoan ở nơi khác.

Theo thầy cúng Sinh, để giữ được thể trạng sung mãn, trẻ trung ấy, Min Phà Sinh tiết lậu, là do loài nấm có bộ dạng kỳ dị như của quý đàn ông. Thầy cúng Sinh không biết tên phổ quát của loài nấm này là gì, chỉ biết rằng, từ đời tiên nhân, tiên tổ đã dùng như nước uống hàng ngày, nên đời sau cứ thế vào rừng hái.

Nấm ngọc cẩu.

Theo Min Phà Sinh, người Cờ Lao có cỗi nguồn từ Trung Quốc, thiên di từ phía bên kia dãy Tây Côn Lĩnh sang bên này, thuộc đất Việt Nam mới khoảng 8 đời, tức cách nay chừng 150 đến 200 năm. tổ sư, họ hàng Min Phà Sinh ở bên Trung Quốc vẫn còn nhiều, nên vẫn đi về. Cây nấm kỳ lạ này chính là thức uống bí truyền, chỉ dòng tộc của Sinh là biết và được truyền cho con dâu. Sở dĩ, các cụ truyền cho con dâu, vì người con dâu về với chồng, sẽ thành người trong nhà và người con dâu sẽ chăm chỉ vào rừng lấy nấm, điển tích trong nhà, để đại gia đình dùng dần, như một thứ thuốc thập toàn đại bổ.

Theo lời Sinh, sở dĩ con gái Trung Quốc có da dẻ trắng mịn, là vì đều được ba má chỉ dạy cách hái thảo dược và uống thảo dược thay nước màu ngày. Tuy nhiên, không phải gia đình nào ở Trung Quốc cũng biết đến loài nấm có bộ dạng kỳ lạ, mà người Cờ Lao gọi là Xin Xao này. Tôi hỏi Min Phà Sinh rằng, tác dụng chính của củ nấm kì quái này là gì, thì thầy cúng Sinh không trả lời ngay, mà kể một huyền thoại vừa có tính bi, hài, và hơi tục một tẹo. Huyền thoại này là của người Cờ Lao sống ở bên Trung Quốc kể.

Chuyện rằng, xưa kia, dãy núi Tây Côn Lĩnh cao đến tận trời, nên người trên trời và người hạ giới vẫn giao lưu với nhau. Các chàng trai Cờ Lao rất đẹp và khỏe, nên tiên nga trên trời rất yêu quý, thường xuống hạ giới để tư tình.

Hàng ngày, các thanh niên Cờ Lao không chịu lao động, bỏ bễ cả gia đình, vợ con để yêu đương với các tiên nữ.Một ngày, đang yêu đương các ngọc nữ, anh chàng Chảo Mìn Sư chợt nhận ra, hành động sống như thế này không ổn, sẽ làm tan tành gia đình, thui chột nòi giống, nên Chảo Mìn Sư đã dùng dao cắt phăng của quý, ném xuống đất, để không còn đầu óc mơ màng đến các tiên nga nữa. Các trai bản Cờ Lao bị ngọc nữ hớp hồn cũng chợt tỉnh, dùng dao cắt của quý bỏ đi như Chảo Mìn Sư. Của quý cắt đi rồi, họ không còn bị tiên nga quyến rũ nữa. Các nàng tiên nhìn cảnh ấy thì đau lòng, nuối tiếc lắm. Để của quý không hỏng, các nàng tiên đã biến chúng thành loài nấm.nĐiều đặc biệt, là loài nấm đó ẩn trong lòng đất, chỉ đến tháng 9 và tháng 10 mới trồi lên khỏi mắt đất. Từ đó, cứ đến tháng 9 và tháng 10, các nàng tiên lại xuống Tây Côn Lĩnh hái củ nấm hình của quý mang về trời. Ăn thứ nấm ấy, các nàng tiên sống đến ngàn tuổi, cứ đẹp mãi, trẻ mãi.

Đàn bà Cờ Lao biết được bí quyết ấy, cũng hái nấm về ăn, để được trẻ mãi không già. Đàn ông Cờ Lao đem nấm ấy về nấu uống, cũng thấy khỏe mạnh, cường tráng, “yêu” vợ không biết mỏi mệt. Tôi hỏi Min Phà Sinh, rằng, liệu loài nấm kỳ dị này có đích thực tăng cường sinh lực hay không? Thầy cúng Sinh cười tủm tỉm bảo: “Cứ cầu thân mình thì biết?”. Tôi quay sang cầu thân thầy cúng Sinh, chị bụm miệng cười, đỏ mặt quay đi. Sinh bảo thêm: “Đàn bà uống thứ nấm này vào, không chỉ xinh đẹp, trẻ mãi, mà còn hồi xuân đủ thứ, lấy được mấy chồng liền đấy nhé”.

Xem thêm các bai thuoc dan gian

Monday, February 9, 2015



Những bài thuốc cổ phương được baithuoc.vn tìm hiểu và giảng nghĩa giúp độc giả, người bệnh hiểu rõ hơn về thành phần, công dụng của những bài thuốc này

1, TẢ TÂM THANG

Đại hoàng (sao rượu) 2 chỉ

Hoàng Liên (Sao rượu) 3 chỉ

Hoàng Cầm (Sao rượu) 4 chỉ

Tâm là quân hỏa, hóa sinh ra huyết dịch, vậy huyết là phách của hỏa, hỏa tức thị hồn của huyết, hỏa thăng nên huyết thăng, hỏa giáng nên huyết giáng. Biết rằng huyết sinh ra ở hỏa, hỏa chủ ở tâm thì biết rằng tả tâm nghĩa là tả hỏa, tả hỏa nghĩa là chỉ huyết. Đắc lực nhất là một vị Đại hoàng, bẻ gãy cái thế hỏa hừng mà giáng xuống, lại kiêm phá huyết trục ứ để khỏi làm hại. Vị này nhân gian nay phần nhiều không ai dám dùng, không biết rằng khí nghịch huyết thăng được vị thuốc này giáng xuống rất mạnh để bẻ gãy thế của dương mà hòa âm, thực là thánh dược vậy !

tát, không chỉ hạ khí ở Vị mà thôi, bên ngoài kinh mạch cơ phụ, hễ chỗ nào khí nghịch ở trong huyết phận, tính của Đại hoàng nơi nào nó cũng chạy suốt đến cả. Vì hơi thuốc rất mạnh, hễ người nào huyết khí bị ngưng tụ đều xài được cả, làm cho khí nghịch phải thuận ngay. cõi tục nay không dám dùng nên thường lưu tà lại trong cơ thể rất đáng tiếc.

Bài thuốc gọi là Tả Tâm thang của Ông Trọng Cảnh, xét đến nguồn gốc mà chữa theo bài thuốc này mà biết được huyết sinh ra ở tâm, tâm tức là hỏa thì về huyết chứng luận đã biết được quá bán vậy !

2, THẬP KHÔI TÁN

Đại kế Trắc bá

Tiểu kế Đại hoàng

Mao căn Đơn bì

Tông lư Hà diệp

Thuyến thảo Chi tử

Các vị trên bằng nhau đốt tồn tính, giải trên đất để tiết hết hỏa độc, dẫn bằng đồng tiện hoặc rượu hoặc nước đen là màu sắc của thủy, khi đỏ thấy đen thì ngừng (kiến hắc tắc chỉ) tức là thủy đã thắng hỏa vậy, cho nên đốt tồn tính thanh đen; đắc lực ở Sơn chi thanh hỏa, Đại hoàng giáng khí, hỏa thanh khí giáng thì huyết được yên. Còn các vị khác đều là thuốc hành huyết, chỉ nhờ để hướng đạo vậy. Thổi vào mũi để cầm máu cam, bôi vào vết thương để chỉ huyết đều dùng được cả.

3, CAM THẢO CAN KHƯƠNG THANG

Cam thảo (nướng) 3 chỉ

Ngũ vị (sao mật) 1 chỉ

Can khương (sao cháy) 2 chỉ

Cam thảo nướng qua thuần về bổ trung, Can khương sao đen thì chuyên về chỉ huyết, hai vị cay ngọt hợp hóa phù dương để đạt ra bốn phía huyết tự vận hành mà không trệ vậy. Ngũ vị thu liếm phế khí để không nghịch lên, lấy chỉ khí mà chỉ huyết. Phàm chứng dương hư tỳ không nhiếp huyết, nhưng huyết vốn là âm trấp, huyết thiếu nghĩa là âm thiếu, những thuốc cương táo thường kỵ dùng, phải xét kỹ mạch chứng, thật là hư hàn mới được dùng phương này.

4, TỨ VẬT THANG

Đương quy 4 chỉ

Sinh địa 4 chỉ

Xuyên khung 2 chỉ

Bạch thược 3 chỉ

Ông Kha Vâng Bá bàn rằng: Tâm sinh huyết, can tàng huyết, thành thử phàm muốn sinh huyết phải xét ở tâm, muốn điều huyết thì nên cần ở can vậy. Phương này chuyên về can kinh điều huyết, không phải là phương tâm kinh sinh huyết.

Đương quy hòa huyết, Xuyên khung hoạt huyết, Bạch thược liễm huyết, Địa hoàng bổ huyết. Bốn vị đủ cả tác dụng Sinh – Trưởng – Thu – Tàng cho nên có thể làm cho vinh khí yên ổn đi ở trong kinh lạc.

Nếu huyết hư thì gia Sâm, Kỳ; huyết kết thì gia Đào nhân, Hồng hoa; huyết bế gia Đại hoàng, Mang tiêu; huyết hàn gia Quế phụ; huyết nhiệt gia Cầm, Liên. Tùy nghi mà gia giẩm, không câu nệ ở cái tên Tứ vật

Nếu gặp những chứng huyết băng, huyết vựng không nên vội bổ bằng thang Tứ vật mà trái lại giúp cho cái thế hoạt thoát, nên bổ khí sinh huyết, giúp cho lẽ dương sinh âm trưởng, vì phương này có thể bổ huyết chất hữu hình trong lúc thường ngày mà chẳng thể sinh huyết vô hình một cách cấp. Phương này điều huyết ở trong âm nhưng không thể bổ dưỡng gốc ở chân âm.

Ông Kha Vâng Bá bàn đây tuy không đủ nghĩa với thang Tứ vật, song nói rằng Tứ vật là phương thuốc chuyên điều huyết của can kinh thì biết sâu xa về sở trường của nó, vì can chủ tàng huyết Xung, Nhung huyết hải đều thuộc can, bởi thế việc điều huyết mà bỏ không dùng Tứ vật là chẳng thể thành công được.

5, ĐƯƠNG QUY LÔ HỘI HOÀN

Quy 1 lạng Hoàng Liên 1 lạng

Long đảm thảo 1 lạng Hoàng bá 1 lạng

Lô hội 5 chỉ Hoàng Cầm 1 lạng

Thanh đại 5 chỉ Đại hoàng 5 chỉ

Chi tử 1 lạng Mộc hương 2,5 chỉ

Xạ hương 5 phân

Trước dùng Thần khúc nếu hồ làm hoàn, uống với nước gừng để trị huyết bệnh, dùng rượu làm hoàn uống bằng đồng tiện thì tốt hơn. Người ta chỉ có can hỏa rất ngang ngược thường đem hỏa của các kinh cùng nhau làm hại. Phương này dùng Thanh đại, Lô hội Long đảm thảo bẻ thẳng vào hỏa của can kinh.

Cầm, Liên, Chi, Bá, Đại hoàng chia nhau mà tả hỏa của các kinh, hỏa thịnh thì khí thực, bởi thế lấy hai vị Hương để hành khí, hỏa thịnh thì huyết hư do vậy lấy Đương quy làm quân để bổ huyết.

Trị can hỏa quyết liệt chỉ có phương này là có lực lượng, không nên tỵ hiềm rằng tả nhiều bổ ít.

Xem thêm các bai thuoc dan gian



Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong thực đơn ít cholesterol của người cao huyết áp cũng nên có nhiều nấm.

Năm ăn thông dụng là nấm rơm, mộc nhĩ (mộc nhĩ), nấm bào ngư.

Nấm rơm dễ trồng, thu hoạch nhanh và năng suất cao. Phong trào trồng nấm rơm khá phổ biến ở các nơi có nhiều rơm dạ. Nấm rơm tươi có nhiều nước, trong 100g nấm tươi có 3,4 – 4,5g chất đạm, 1,8g chất béo, ngoài ra còn có các khoáng vật và chất xơ. Trong 100g nấm rơm khô có 49g chất đạm, 20g chất béo.

Cây nấm rơm

nấm mèo khô có 13,8/100g chất đạm, nhiều chất xơ và khoáng vật, gồm cả calcium và sắt.
Nấm bào ngư có lượng đạm gấp đôi rau quả, nhiều vitamin B1, B2 và đầy đủ các chất khoáng cần thiết cho thân thể, nhất là calcium, photpho và sắt với tỷ lệ gấp đôi so với thịt.
Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong menu ít cholesterol của người cao huyết áp cũng nên có nhiều nấm. Trong nấm có ít ion natri nên dùng cho người viêm thận hoặc suy tim có chứng phù cũng rất hợp. Nấm có nhiều acid folic hơn thịt và rau nên giúp buồng bệnh thiếu máu.

Do có nhiều chất xơ, nấm có tính nhuận trường. Thống kê cho thấy tỷ lệ ung thư đại tràng thấp ở vùng dân ăn nhiều nấm và cao ở vùng dân ăn nhiều thịt. Trường Đại học Tokyo ban bố rằng dịch chiết nấm ăn bằng cồn có tính trị ung thư ở chuột.
Dân gian thường dùng mộc nhĩ để trị các bệnh rối loạn đường ruột, đau cổ họng, thanh lọc máu. Đông y quan niệm rằng nấm mèo làm nhẹ mình, ích khí, cường chí.
Nấm không có diệp lục tố, không tự sinh sản được carbonhydrat như cây xanh, chúng sống nhờ vào cây mà chúng bám vào. Do đó nấm lành hay độc phần nào tùy thuộc vào môi trường cấy. Tốt nhất nên gieo cấy nấm mèo bằng mạt cưa trong bịch nylon nên chọn mạt cưa của loại gỗ cây không độc.

Việc thu hoặch nấm hoang dã cần phải có kinh nghiệm. Đã có rất nhiều trường hợp trúng độc nấm gây tử vong. Nấm độc thường có mầu sặc sỡ hoặc ánh bạc. Khí nấu chín mà nấm có mùi vị khác lạ thì không nên ăn.

Xem thêm các bai thuoc dan gian



Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.
Ngó Sen

Ngó Sen

Ngó Sen hay liên ngẫu là phần rễ ở dưới nước, mầu trắng, xốp, bên trong có nhiều ống dọc nhỏ, nhựa dính sít. Ngó sen vị nhạt, tính mát, không độc. Trong ngó sen có những chất bổ quí như asparagin, acginin.

Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.

Cay-Sen

Cây Sen

– Lá sen, cuống sen, vỏ hạt sen: dùng chữa tiêu chảy, cầm máu.

– Hoa sen: dùng để an thần, cầm máu.

– Nhụy sen, tua sen: có tác dụng thanh tâm, thông thận, cầm máu, cố tinh.

– Hạt sen: bổ dương, bổ tâm tỳ, ích khí, an thần.

– Tâm sen: an thần, trị nhịp tim nhanh, khó ngủ, hay mơ.

– Củ sen: dưỡng tâm, bổ tỳ, cố tinh.

Tác dụng của ngó sen sống và ngó sen chín khác nhau. Ngó Sen sống có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát, an thần, làm nhẹ bao tử và giải độc rượu. Người ta dùng ngó sen để trị nhức đầu, mất ngủ, táo bón. Ngó Sen nấu chín làm mạnh tỳ vị, bổ tâm huyết, giải độc do ăn phải cua độc. Ngó Sen chín còn có tác dụng nhuận trường. Người ta thường nấu canh hay làm nộm ngó sen làm cho uống rượu không say, ngó sen dùng cho người bệnh đái đường rất tốt vì nó có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát.

Ngoài tác dụng trị liệu, Sen còn là cây cảnh rất đẹp và nên thơ.

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn

Xem thêm các bài thuốc dân gian

Sunday, February 8, 2015



Trong dân gian, quả mướp đắng thường được dùng làm các món ăn hàng ngày như: mướp đắng nhồi thịt nấu canh, khổ qua xào trứng, mướp đắng sống ướp lạnh ăn với ruốc, khổ qua muối chua… đều là những món được nhiều người chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

mướp đắng còn gọi là mướp đắng (không phải là Khổ quá), có tên khoa học là Monardico charantin. Quả mướp đắng có vị đắng, tính hàn, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, mát tim, sáng mắt, nhuận tỳ, bổ thận, nuôi can huyết, bớt mỏi mệt, trị chứng tiêu khát (tiểu đường), trị đái dắt, phù thũng do can nhiệt. Hạt mướp đắng có tách dụng ích khí, tráng dương. Nước sắc lá khổ qua kích thích sự tiết mật, trị sốt cao, cũng dùng để trị bệnh tiểu đường. Dây mướp đắng nấu nước tắm trị rôm sẩy trẻ nít.

Trong dân gian, quả mướp đắng thường được sử dụng làm các món ăn hàng ngày như: khổ qua nhồi thịt nấu canh, khổ qua xào trứng, khổ qua sống ướp lạnh ăn với ruốc, khổ qua muối chua… đều là những món được nhiều người chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

Ăn uống là mạch sống của con người. Nếu ăn uống có chừng mực, đúng cách thì tỳ vị điều hòa, tạng phủ bình yên. Việc điều hòa ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn) rất quan trọng, ăn nhiều vị nào quá cũng không tốt. Cho nên trong Nội kinh có câu:

“Ăn là nuôi sự sống, cái ích đó do ta làm nên

Ăn là hại sự sống, cái hại đó cũng do ta làm nên”

Xem thêm các bài thuốc hay